Nhận định

Hé lộ thiết kế Pixel 3 và Pixel 3 XL của Google sắp ra mắt

字号+ 作者:NEWS 来源:Công nghệ 2025-03-22 23:57:10 我要评论(0)

Sẽ có một số thay đổi trong thiết kế dòng smartphone hàng đầu của Google từ những thông tin rò rỉ vềphạm minh chínhphạm minh chính、、

Sẽ có một số thay đổi trong thiết kế dòng smartphone hàng đầu của Google từ những thông tin rò rỉ về Pixel 3 và Pixel 3 XL mới nhất.

Mua Lytro,élộthiếtkếPixelvàPixelXLcủaGooglesắpramắphạm minh chính Google muốn Pixel thành smartphone chụp ảnh số 1

1.本站遵循行业规范,任何转载的稿件都会明确标注作者和来源;2.本站的原创文章,请转载时务必注明文章作者和来源,不尊重原创的行为我们将追究责任;3.作者投稿可能会经我们编辑修改或补充。

相关文章
网友点评
精彩导读
{keywords}Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng tham dự hội nghị về chuyển đổi số tại Bộ Giao thông Vận tải. Ảnh: Đức Huy

Kính thưa đồng chí Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể!

Thưa các đồng chí và các bạn!

Tôi xin phép nói một số ý về chuyển đổi số.

1- Để hiểu hơn về chuyển đổi số (CĐS) thì nên làm rõ nội hàm của 3 từ tiếng Anh là: Digitization, Digitalization và Digital Transformation.

Digitization, tiếng Việt gọi là số hoá, là số hoá thông tin. Thông tin được số hoá và lưu trữ, xử lý trên máy tính. Từ phổ biến là mua máy tính. Và là vấn đề của công nghệ. Người được nhắc đến nhiều nhất là kỹ sư công nghệ thông tin (CNTT).

Digitalization, tiếng Việt gọi là ứng dụng CNTT, là số hoá các quy trình. Là số hoá chiều dọc, số hoá các chức năng của một tổ chức. Thí dụ của nó là phần mềm quản trị nhân lực, phần mềm kế toán. Từ phổ biến là dự án CNTT. Và nó cũng là vấn đề của công nghệ là nhiều. Người được nhắc đến nhiều nhất là Giám đốc công nghệ thông tin (CIO) trong doanh nghiệp và Bộ trưởng Bộ CNTT trong Nhà nước.

Digital Transformation, tiếng Việt gọi là chuyển đổi số (CĐS), là số hoá toàn bộ tổ chức, 100% hoạt động của tổ chức được chuyển lên trên môi trường số và tiếp theo là thay đổi cách hoạt động của tổ chức. Là số hoá chiều ngang. Phải làm lại chiến lược của tổ chức, làm lại vận hành của tổ chức. Từ phổ biến là thể chế, là thay đổi. Và nó là vấn đề về thể chế, về thay đổi nhiều hơn là vấn đề về công nghệ. Người được nhắc đến nhiều nhất là CEO trong doanh nghiệp và Thủ tướng Chính phủ trong Nhà nước. Ý muốn nói rằng, CĐS là công việc của người đứng đầu nhiều hơn là của người phụ trách công nghệ.

2- Dữ liệu có phải dầu mỏ không? Không, dữ liệu không phải dầu mỏ. Dầu mỏ thì 1+1 bằng 2. Dữ liệu thì 1+1 sẽ lớn hơn 2, mà nhiều khi là lớn hơn rất nhiều, bởi vì dữ liệu mà to ra thì giá trị sẽ tăng theo cấp số nhân. Dầu mỏ thì dùng là hết. Dữ liệu mà sử dụng thì vẫn còn đó. Dầu mỏ thì người này dùng sẽ không còn cho người kia dùng nữa. Dữ liệu thì người này dùng tạo ra giá trị sẽ không ảnh hưởng gì đến việc một người khác nữa dùng và tạo ra giá trị khác, càng nhiều người dùng càng tốt.

3- Làm CĐS cho ngành giao thông cần bao nhiêu doanh nghiệp công nghệ số? Chắc chắn không phải 1, cũng không phải 2, cũng không phải 3 mà sẽ là nhiều hơn rất nhiều. Dữ liệu của ngành giao thông thì người nhìn thấy giá trị rõ nhất nhiều khi không phải người trong ngành. Chúng ta sẽ không biết được ai sẽ là người tạo ra giá trị nhiều nhất từ dữ liệu ngành giao thông và vì thế mới có việc mở dữ liệu cho các doanh nghiệp khai thác và tạo ra giá trị cho đất nước.

4- CĐS thì có nên bắt đầu từ những dự án to không? Câu hỏi quan trọng nhất về mọi dự án là nó có hiệu quả không, chứ không phải câu hỏi về to hay nhỏ. Hiệu quả có nghĩa là bỏ ra 100 đồng thì phải mang về lớn hơn 100 đồng. CĐS là một công việc mới và sẽ là một quá trình rất dài và liên tục. Vậy nên, hãy bắt đầu từ những dự án mà sau 1 năm, hoặc cùng lắm 2 năm phải mang lại kết quả và hiệu quả. Những trải nghiệm này sẽ mang lại niềm tin vào CĐS và để ra những quyết định lớn hơn. Hãy luôn nhìn vào giá trị và hiệu quả mà các dự án CĐS mang lại. Hãy thận trọng với những dự án hoành tráng!

5- Các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có thể giải được các bài toán của ngành giao thông không? Thành công của CĐS thì công nghệ chỉ chiếm 20-30%. Phần lớn là phụ thuộc vào quyết tâm chuyển đổi hoạt động của người đứng đầu và sự tường minh của bài toán mà tổ chức đó đặt ra cho giới công nghệ. Các doanh nghiệp công nghệ số nước nhà hoàn toàn có thể giải được những bài toán của ngành giao thông, nếu thiếu tri thức thì họ có thể hợp tác quốc tế. Phản ứng nhanh, linh hoạt, sáng tạo, am hiểu công nghệ, thay đổi kịp thời theo yêu cầu của người dùng, có thể tự bỏ tiền đầu tư làm thí điểm trước, hiểu văn hoá, đó là những thế mạnh của doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam.

6- Tại sao có nhiều doanh nghiệp công nghệ sẵn sàng bỏ chi phí của mình để làm thí điểm CĐS với ngành giao thông? Bởi vì các dự án CĐS đều phải có người làm “chuột bạch”, tức là phải có môi trường, có tri thức của ngành và có dữ liệu để thử. Doanh nghiệp công nghệ không thể tự làm được. Vậy nên, có người cho làm là hạnh phúc rồi. Sản phẩm được tạo ra luôn có công của cả người lập trình và công của người dùng. Sau này, kể cả trường hợp ngành giao thông không mua sản phẩm của họ thì họ cũng đã có sản phẩm. Sự hợp tác hai bên này là điều kiện tiên quyết để dự án CĐS thành công.

7- Bộ trưởng Bộ Giao thông thời CNTT và thời CĐS có gì khác nhau? Thời CNTT thì Bộ trưởng chỉ là người quyết định chi tiền, Giám đốc CNTT sẽ là người làm. Thời CĐS thì Bộ trưởng là người làm trực tiếp, nếu chỉ chi tiền mà không làm trực tiếp thì sẽ mất tiền là chính. Vì CĐS không phải là mua công cụ để tự động hoá các quy trình cũ mà là thay đổi cách hoạt động, thay đổi quy trình, mà đây lại là việc của Bộ trưởng.

8- CNTT và công nghệ số (CNS) thì có gì khác nhau?

CNS thì có có thêm công nghệ Big Data (dữ liệu lớn) có thể lưu trữ, xử lý được những dữ liệu rất lớn với giá rất rẻ và rất nhanh. Trước đây thời CNTT sẽ không dám thu thập và lưu trữ nhiều dữ liệu vì đắt, lại không xử lý được nên dữ liệu lớn không mang lại giá trị.

CNS thì có thêm công nghệ IoT (Internet vạn vật) để đo đạc, thu thập dữ liệu về thế giới xung quanh, thí dụ như các bộ cảm biến đặt dưới lòng đường xem có xe ô tô nào đang đỗ tại đó không và truyền dữ liệu về trung tâm để thông báo cho những người lái xe về chỗ có thể đỗ xe. Các bộ cảm biến bây giờ nhỏ, tốn ít nguồn, truyền được dữ liệu qua mạng viễn thông, giá thì rẻ, có thể lắp đặt hàng triệu cái. Nếu tưởng tượng cả thế giới vật lý được số hoá và được đo lường theo thời gian thực và cập nhật dữ liệu thì Bộ Giao thông sẽ biết ngày mai có bao nhiêu km đường và ở đâu cần bảo dưỡng.

CNS có một công nghệ mới là Cloud Computing (điện toán đám mây). Trước đây cứ phải đi đầu tư các hệ thống CNTT, mỗi cục, mỗi vụ, mỗi sở, mỗi huyện, mỗi xã là một hệ thống, không biết bao nhiêu mà kể, nhưng tất cả chúng cũng chỉ để làm một việc giống nhau. Rồi cứ mấy năm lại phải đầu tư lại và cũng không biết tuyển đâu ra người để vận hành nó. Bây giờ thì cả Bộ là một phần mềm dùng chung từ Trung ương đến địa phương, phần cứng cũng là một, cần bao nhiêu thì thuê, không cần đầu tư vận hành, giá lại rẻ hơn nhiều.

CNS thì có thêm công nghệ AI (trí tuệ nhân tạo). Có lẽ AI của Cuộc cách mạng 4.0 là sự khác biệt lớn nhất so với ba cuộc cách mạng công nghiệp trước đây. Trước đây, công nghệ là thay lao động chân tay, bây giờ AI thay lao động trí óc. Con người thì đọc sách, AI thì học trên dữ liệu, rất nhiều dữ liệu của rất nhiều ngày và ra quyết định rằng ngày mai thứ 4, trời có mưa to, lại là ngày Quốc tế phụ nữ, tại ngã tư Cầu Giấy vào lúc 4h30 chiều thì đèn đỏ sẽ để 55 giây, chứ không phải 30 giây như ngày hôm trước, vì 55 giây là hiệu quả nhất và giảm tắc đường. AI giúp tự động hoá quá trình ra quyết định. Trước đây, máy móc tự động rồi, nhưng quá trình ra quyết định vẫn chưa tự động thì nay với trợ giúp của AI, quá trình ra quyết định là tự động. AI thay người ra quyết định ở một số việc.

9- Có người nói về văn hoá thời CĐS, nó là gì vậy? Nếu có chăng một cái như vậy thì đó là tinh thần giống như khởi nghiệp, mọi thứ đều phải thử, đều rất nhanh, chấp nhận sai rồi sửa, nghĩ thì lớn mà làm thì từ nhỏ, mọi thứ khá bừa bộn, người làm nhiều nhất là Bộ trưởng, ai cũng hỏi Bộ trưởng mà Bộ trưởng chẳng biết hỏi ai, sẽ không biết cái gì đúng, cái gì sai mà phải là thử đi rồi biết.

10- Ngành giao thông nên bắt đầu từ bài toán nào? CĐS thì thường hiệu quả nhất là ở các bài toán khó, tồn tại lâu dài trong ngành giao thông. Thí dụ, tắc đường ở thành phố lớn, vậy đèn giao thông có thể thông minh hơn không? Chi phí cho logistics chiếm tỷ trọng cao trong GDP, vậy Big Data về các phương thức và phương tiện vận tải có thể giúp phân tải đều cho các phương thức và phương tiện, cả chiều đi và chiều về, do vậy mà giảm giá thành không? Tai nạn giao thông nhiều, Big Data về tình trạng đường sá (IoT), thời tiết, tuổi người lái xe, nơi và thời gian xảy ra tai nạn, người bị tai nạn đi phương tiện gì,... rồi dùng AI có cho chúng ta dự đoán và hạn chế được gì không? Chúng ta có dữ liệu để đánh giá hiệu quả các con đường đã xây chưa, chúng ta có dữ liệu từ viễn thông và các ngành khác để dự đoán lưu lượng của một con đường mới không? Liệu IoT có phải là cách tốt để dự đoán chính xác sự xuống cấp của các con đường và thời điểm phải bảo dưỡng chúng không?

11- Chúng ta có cách nào để không phải cái gì cũng cứ phải làm thử trước không vì thế thì chậm lắm? Cái may của CĐS là nhiều bài toán khá là giống nhau ở các quốc gia. Nhiều bài toán của ngành giao thông Việt Nam đã được các nước giải quyết rồi, đang hoạt động hiệu quả rồi, vậy thì ta học và làm luôn thôi. Chúng có thể chiếm tới 60-80%. Trong thời đại thay đổi nhanh này thì học hỏi người đi trước luôn là cách nhanh và hiệu quả nhất. Và cũng là dễ nhất nữa.

12- Bộ Giao thông có thể nhờ Bộ TT&TT lead một dự án nào không? Rất hân hạnh. Thường thì dự án nào bên giao thông thấy khó thì có thể sẽ không khó với ngành TT&TT. Anh Thể nên giao một việc khó.

13- Cách làm thời CNTT và CĐS có gì khác nhau? Thời CNTT thì có thể làm từng phần, chỗ làm chỗ không, khi dùng thì nửa trong hệ thống nửa ngoài hệ thống, nhân viên thì dùng nhưng thủ trưởng không dùng, dữ liệu thì nhà ai người đó giữ, nói nhiều đến chi mà ít nói đến giá trị tăng thêm, người bận rộn nhất là Giám đốc CNTT, khoe nhau thì là nhiều máy chủ, máy tính. Thời CĐS thì chỉ có thể là tất cả các đơn vị trong tổ chức cùng làm, người đầu tiên phải dùng là thủ trưởng, không vào hệ thống thì không làm việc được và không còn lúc trong lúc ngoài, dữ liệu thì liên thông không còn cát cứ, câu hỏi đầu tiên thường là dự án mang lại giá trị tăng thêm gì thay vì chỉ là chi bao nhiêu, người bận rộn nhất là người đứng đầu tổ chức, khoe nhau là nhiều dữ liệu.

14- Dữ liệu thời CNTT và CĐS có khác nhau không? Thời CNTT thì từ phổ biến về dữ  liệu là cơ sở dữ liệu (CSDL), người này tên gì, ngày sinh, quê quán, cái ô tô này loại gì, được mua ngày nào, biển số nào, đây là những dữ liệu ổn định. Thời CĐS thì từ phổ biến là dữ liệu lớn, là dữ liệu sống, là dữ liệu do con người, đồ vật sinh ra hàng ngày, nó lớn hơn hàng vạn, hàng triệu lần so với dữ liệu ổn định, là cái ô tô này đi bao nhiêu km, đi qua những con đường nào, cái lốp xe đã mòn đến mức nào rồi, những rung xóc ngày hôm nay đã làm giảm tuổi thọ ô tô thêm bao nhiêu. Những dữ liệu sống này được liên kết với nhau, được phân tích và sẽ tạo ra nền kinh tế dựa trên dữ liệu, tạo ra sự phát triển đột phá cho đất nước.

15- Tại sao cứ nói CĐS là hay là tốt mà nhiều ứng dụng CĐS rất chậm đi vào cuộc sống? CĐS là thay đổi. Mà thay đổi là không dễ. Thay đổi một thói quen còn khó hơn nhiều. Thay đổi thói quen của cả một xã hội còn khó hơn nữa. Thói quen mới nhiều khi phải bắt đầu từ biện pháp hành chính để mọi người phải dùng.

16- Dành bao nhiêu tiền cho CNTT, CĐS thì vừa, có cần định mức không? Cái mà mới thì làm sao biết để định mức. Nhưng có số liệu thống kê qua nhiều năm, ở nhiều nước. Chi cho CNTT và bây giờ là CĐS thì các nước trung bình là 1% ngân sách, nước nào cao thì chi hơn, có khi trên 2%. Nếu coi tổ chức như một cơ thể thì hệ thống thông tin như cái não. Cái não tuy nhỏ nhưng nếu thông minh thì sẽ làm cho toàn bộ tổ chức hiệu quả hơn rất nhiều. 100 đồng chi cho phát triển hạ tầng giao thông, nếu trong đó chi 1 đồng cho hệ thống thông tin thì cái phần 99 đồng hạ tầng kia có thể có giá trị như là 130 đồng, có khi còn hơn. Ngành giao thông trước đến nay chi cho CNTT thường là chưa được 0,1%. Ngành giao thông đang quản lý một lượng tài sản rất lớn và những tài sản này đang tham gia vào phát triển kinh tế, nếu giao thông mà thông minh hơn, tắc đường giảm, thời gian chờ đèn đỏ giảm, xe vận tải chiều đi chiều về đều có hàng, xe không phải dừng lại mua vé, các con đường đều được tính toán hiệu quả, có dữ liệu để phân tải hiệu quả các phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không,... thì ngành giao thông có thể góp thêm cho tăng trưởng GDP của đất nước rất đáng kể.

Kính thưa các đồng chí,

Tôi trân trọng cảm ơn anh Nguyễn Văn Thể - Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải đã tổ chức buổi làm việc hôm nay. Hai Bộ đã trình bày hiện trạng, Chương trình CĐS Quốc gia, đường hướng tương lai của CĐS ngành giao thông, các doanh nghiệp cũng đã phát biểu và đề xuất. Chúng tôi hiểu hơn câu chuyện của ngành giao thông. Và Bộ Giao thông vận tải cũng thấy rõ hơn những gì mà CĐS có thể mang lại cho ngành và đặc biệt hơn là niềm tin vào các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có thể giải quyết các bài toán của ngành giao thông. Chúng ta sẽ ký với nhau một thoả thuận về những việc mà hai Bộ sẽ làm, nhất là những việc cụ thể cho 2 tháng còn lại của năm nay và cả năm sau. Tôi có niềm tin là dưới sự lãnh đạo của Bộ trưởng và sự quyết tâm của các đồng chí lãnh đạo Bộ, lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ, công cuộc CĐS ngành giao thông sẽ có sự chuyển biến mạnh mẽ và những lợi ích mà nó mang lại sẽ được nhìn thấy trong thời gian sớm nhất.

Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng

 

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại Lễ trao giải Viet Solutions 2021

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại Lễ trao giải Viet Solutions 2021

VietNamNet trân trọng giới thiệu toàn văn phát biểu của Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng tại Lễ trao giải Viet Solutions 2021.

" alt="Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu về chuyển đổi số tại Bộ Giao thông Vận tải" width="90" height="59"/>

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu về chuyển đổi số tại Bộ Giao thông Vận tải

{keywords}Kỹ sư lập trình thị giác máy tính, lập trình Blockchain, IoT, AI hiện là nhóm người được trả lương cao nhất trên thị trường nhân lực CNTT Việt Nam. 

Có một thực tế là mức thu nhập của những người làm CNTT tại Việt Nam hiện khá cao so với các ngành nghề khác. Với những người thực sự xuất sắc, một kỹ sư CNTT mới ra trường cũng có thể hưởng mức lương lên tới hàng chục triệu đồng. 

Chia sẻ với VietNamNet, ông Nguyễn Viết Lâm - Phó Tổng Giám đốc kiêm Giám Đốc Nhân sự Công ty Cổ phần Rikkeisoft cho biết, thu nhập bình quân của kỹ sư CNTT mới ra trường hiện có sự chênh lệch và biên độ lớn, phổ biến nhất là từ 10-20 triệu đồng. 

{keywords}
Ông Nguyễn Viết Lâm

Mức thu nhập của người làm CNTT phụ thuộc vào trình độ nhân sự, tính chất công việc và lĩnh vực dịch vụ mà họ tham gia đảm nhiệm. Một số ít có nền tảng tốt, năng lực trình độ cao, tiếp cận vào công việc sớm trước khi tốt nghiệp và có sẵn kinh nghiệm khi ra trường có thể được nhà tuyển dụng đề xuất mức thu nhập cao hơn. 

Bên cạnh đó, thu nhập bình quân của một kỹ sư CNTT có thể tăng nhanh hơn nhiều ngành nghề khác bởi các kỹ năng, chuyên môn được nâng cấp nhanh trong thời gian ngắn sau khi ra trường.

Theo ông Nguyễn Viết Lâm, tỷ lệ sinh viên CNTT mới ra trường được hưởng mức lương 30-40 triệu đồng là không nhiều trên tổng số sinh viên tốt nghiệp hàng năm. Lý do chính là bởi số đông các bạn sinh viên mới ra trường có năng mực mới chỉ dừng ở mức học hỏi, tích lũy các kiến thức nền tảng cho công việc. 

Nhóm người lao động này cần thời gian để bổ sung thêm các kiến thức chuyên sâu, kỹ năng mềm như khả năng giao tiếp, phân tích, giải quyết các vấn đề. Tuy vậy, trong lĩnh vực CNTT, mức lương người lao động trong ngành CNTT nhận được có thể tăng nhanh theo thời gian. 

Theo Giám đốc nhân sự của Rikkeisoft, ở một số lĩnh vực do yếu tố khan hiếm và nhu cầu cao như AI, Blockchain… mức lương mà một kỹ sư CNTT nhận được có thể ở mức cao hơn. Mức đãi ngộ cao sẽ tập trung ở các vị trí công việc đòi hỏi tính phức tạp cao và năng lực tốt. 

Để được hưởng mức lương 30-40 triệu đồng/tháng, các bạn sinh viên CNTT mới ra trường cần phải có kiến thức tốt, khả năng học hỏi nhanh, có trình độ về ngoại ngữ và kỹ năng chủ động giải quyết các vấn đề trong công việc. 

Bên cạnh đó, sự tự tin và biết chọn lựa đúng xu hướng công nghệ, đúng lĩnh vực có nhu cầu cao của thị trường cũng là điều kiện để các nhà tuyển mộ sẵn sàng đưa ra mức lương hấp dẫn, vị chuyên gia về nhân sự CNTT này chia sẻ.

Trọng Đạt

Lương sinh viên IT mới ra trường 30-40 triệu đồng làm nhiều ngành khác mơ ước

Lương sinh viên IT mới ra trường 30-40 triệu đồng làm nhiều ngành khác mơ ước

Trong bối cảnh thị trường IT Việt Nam đang rất thiếu nhân lực CNTT, nhiều bạn trẻ mới ra trường với kỹ năng tốt cùng kinh nghiệm phong phú có thể được nhận vào làm việc với mức lương lên tới 30 triệu đồng/tháng.   

" alt="Sinh viên CNTT mới ra trường nhận lương 40 triệu đồng, liệu có khả thi?" width="90" height="59"/>

Sinh viên CNTT mới ra trường nhận lương 40 triệu đồng, liệu có khả thi?

{keywords}Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng dự phiên Hội nghị cấp Bộ trưởng vào tối 14/10. (Ảnh: Lê Anh Dũng)

Đánh giá phiên bàn tròn này là cơ hội tốt để các quốc gia cùng trao đổi những ý tưởng và thực tiễn tốt trong việc theo đuổi hành trình chuyển đổi số, bà Agne Vaiciukeviciute, Thứ trưởng Bộ Giao thông và Truyền thông Lithuania cho rằng: Các chính sách của Chương trình nghị sự số hóa, cơ sở hạ tầng số mạnh mẽ với giá cả phải chăng và tiếp cận rộng rãi, sẽ cung cấp “xương sống” cho việc số hóa các nền kinh tế.

Các diễn giả đều thống nhất rằng đại dịch Covid -19 đã tác động mạnh mẽ, buộc các quốc gia phải đẩy nhanh chuyển đổi số. 

Nhấn mạnh ý nghĩa của chuyển đổi số với lĩnh vực giáo dục, ông Thomas Davin, Giám đốc Đổi mới toàn cầu của UNICEF thông tin: Trước Covid-19, chúng ta có khoảng 260 triệu trẻ em không được đến trường và khoảng 825 triệu trẻ em, những người trẻ tuổi đang trên đà đến tuổi trưởng thành không được trang bị đủ kỹ năng phù hợp ở cấp trung học, mà lẽ ra họ phải nhận được từ các trường học.

Hiện tại, trong đại dịch, có 1,6 tỷ trẻ em bị gián đoạn việc học tập. Hơn 18 tháng đã trôi qua kể từ khi dịch mới bùng phát nhưng có khoảng 18 triệu trẻ em vẫn chịu hậu quả của việc đóng cửa trường học. Giải pháp duy nhất cho điều này là kết nối kỹ thuật số. “Nếu các trường học, các cộng đồng và những đứa trẻ đó được kết nối, đây thực sự là bước đầu tiên của sự tiến bộ”, ông Thomas Davin nói.

Ông Tsoinyana Rapapa, Bộ trưởng Bộ Công nghệ, Khoa học và Truyền thông của Lesotho nhấn mạnh: Đại dịch đã thách thức cách chúng ta vận hành cuộc sống bình thường. Và trong khi đại dịch không bỏ qua bất cứ quốc gia nào, có những bài học quan trọng để lại. “Chúng tôi đã học được rằng cần đặt nhiều nỗ lực vào chuyển đổi số để biến lý thuyết trở thành thực tiễn”, ông Tsoinyana Rapapa chia sẻ.

Theo ông, đại dịch đã chỉ ra rằng Chính phủ cần ưu tiên các chính sách và hỗ trợ hạ tầng ICT cho quá trình chuyển đổi số các dịch vụ. Các sáng kiến của Chính phủ đã được thực hiện độc lập ở nhiều quốc gia khác nhau. Sở dĩ như vậy là do tính địa phương hóa ở mỗi đất nước.

Do đó, đại diện Lesotho đề xuất các nước cần tập trung thông tin để thúc đẩy hiệu quả việc sử dụng ICT và Chính phủ cần đóng vai trò dẫn dắt. “Điều này bao gồm những chính sách thúc đẩy đầu tư nội dung bản địa ở các nước đang phát triển. Các bên liên quan cũng cần có sự tham gia vào cuộc mạnh mẽ, bao gồm cả khu vực tư và một số khu vực khác”, ông Tsoinyana Rapapa lý giải.

Song song đó, các nước cần đầu tư xây dựng những quỹ dự phòng để giảm thiểu bất bình đẳng kỹ thuật số; đồng thời đảm bảo mọi người có quyền truy cập Internet với giá cả phải chăng, đáng tin cậy và đủ băng thông đáp ứng nhu cầu thường nhật.

“Tôi kêu gọi các cơ quan quản lý liên tục thích ứng với sự thay đổi, tự làm mới để hiểu rõ những vấn đề và quan điểm chuyển đổi số. Lời kêu gọi này cần sự hợp tác giữa các chính phủ, các cơ quan quản lý và nó sẽ đem lại lợi ích cho tất cả mọi người”, Bộ trưởng Bộ Công nghệ, Khoa học và Truyền thông của Lesotho nêu quan điểm.

Chuyển đổi số là chất xúc tác quan trọng nhất cho tăng trưởng

Với diễn giả đến từ Cơ quan quản lý CNTT-TT (CITRA) của Kuwait, ông Salim M. Al-Ozainah, Chủ tịch, Tổng giám đốc điều hành đơn vị này nhận định, đại dịch Covid-19 đã tạo ra những xáo trộn khiến quá trình chuyển đổi số phải diễn ra với tốc độ nhanh ngoài kỳ vọng.

Các chính phủ đang phải chuyển nhiều dịch vụ công sang trực tuyến nhằm đảm bảo người dân có thể tiếp cận chúng. Các lĩnh vực tư nhân cũng thúc đẩy giao dịch trực tuyến, giáo dục chuyển sang trực tuyến để học sinh, sinh viên có thể tiếp tục học tập ... “Điều kiện mới buộc các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp phải có chính sách, chiến lược phù hợp để thích ứng”, ông Salim M. Al-Ozainah nói.

{keywords}
Phiên Hội nghị Bộ trưởng vào tối 14/10 có chủ đề “Số hóa cuộc sống thường nhật: Các dịch vụ Chính phủ và nội dung số thúc đẩy chuyển đổi số” (Ảnh: Lê Anh Dũng)

Đại diện CITRA nhận xét: Chuyển đổi số cùng việc khai thác ứng dụng đám mây sẽ giúp cắt giảm thời gian, chi phí và đạt được sự linh hoạt, hiệu quả hơn trong thông tin liên lạc và các lĩnh vực khác của đời sống kinh tế - xã hội.

Không những thế, quá trình này sẽ mở rộng phạm vi phát triển, sự thay đổi cũng như tính chính xác của việc chuyển đổi ưu tiên của nền kinh tế, các thị trường địa phương và các lĩnh vực công nghiệp. Chuyển đổi số là động lực, chất xúc tác quan trọng cho tăng trưởng.

Ba ưu tiên chính về chuyển đổi số

Cũng nhìn nhận tác động của đại dịch ở khía cạnh tích cực, ông Majed Sultan Al Mesmar, Cục trưởng Cục Viễn thông và Chính phủ số (TDRA), Các tiểu vương quốc Ả rập cho rằng, đại dịch đã giúp các nước nhận ra những lợi ích to lớn của chuyển đổi số, dù ở khía cạnh kinh tế - xã hội hay môi trường.

Chia sẻ kinh nghiệm của nước mình, Thứ trưởng Bộ Giao thông và Truyền thông Lithuania, bà Agne Vaiciukeviciute cho biết, dựa trên nền tảng của cơ sở hạ tầng số, Lithuania đã xác định 3 ưu tiên chính về chuyển đổi số gồm quản trị CNTT công, dữ liệu mở và thúc đẩy các đổi mới kỹ thuật số.

Lithuania đang khám phá cách quản trị CNTT để tạo cơ sở kỹ thuật số mạnh mẽ cho khu vực công nhằm tăng trưởng GDP, giảm chi tiêu công, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người dân hoạt động kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời, củng cố đầy đủ nguồn dữ liệu nhà nước để các dịch vụ và quy trình cơ sở hạ tầng CNTT của các tổ chức công được quản lý tập trung một cách hiệu quả, an toàn.

“Chúng tôi đã đầu tư khoảng 95 triệu Euro để đảm bảo sự thành công của cuộc cải cách này. 15 triệu Euro khác được phân bổ nhằm tăng cường an ninh mạng cho hệ thống ID quốc gia. Chúng tôi sẽ thúc đẩy hệ thống dữ liệu mở trong chính sách công để cải thiện chất lượng và nền tảng cho cộng đồng khoa học công và các doanh nghiệp. Các cộng đồng khác cũng có thể sử dụng nó một cách dễ dàng”, bà Agne Vaiciukeviciute chia sẻ.

Chính phủ Lithuania còn ưu tiên thúc đẩy đổi mới kỹ thuật số. Nỗ lực phục hồi kinh tế và phát triển các mạng LAN bền vững đã mang tới những ưu đãi tài chính trị giá 50 triệu Euro cho các công ty khởi nghiệp, sẽ có nhiều sản phẩm, giải pháp về công nghệ Blockchain, AI và các quy trình đô thị mà nước này coi là một phần quan trọng trong chính sách chuyển đổi số.

Thách thức để duy trì niềm tin trong môi trường số

Với Indonesia, bà Mira Tayyiba, Tổng thư ký Bộ TT&TT nước này khẳng định, công nghệ số đã trở thành trụ cột của Indonesia trong việc ứng phó với đại dịch Covid-19. Kể từ lúc bắt đầu dịch bệnh, khu vực số nằm trong nhóm tăng trưởng nhanh nhất, đạt tỷ lệ 10,58% vào năm 2020 và tăng trưởng lũy kế 7,78% trong nửa đầu năm nay.

Lĩnh vực kỹ thuật số cũng là động lực để các doanh nghiệp kiên trì vượt qua khủng hoảng. Đại dịch đã thúc đẩy các quốc gia làm việc chăm chỉ hơn và hiệu quả hơn khi đẩy nhanh chương trình chuyển đổi số.

“Đại dịch thúc đẩy nỗ lực của Chính phủ trong việc cung cấp các dịch vụ công để tạo ra sự phục hồi ở Indonesia. Chúng tôi đã xây dựng 1 ứng dụng tích hợp nhằm hỗ trợ người dân, đến tháng 10/2021 đã có 52 triệu người dùng. Ứng dụng này cung cấp đăng ký tiêm chủng, dịch vụ số và nhiều tiện ích khác. Công nghệ số tạo ra cơ hội cho tất cả mọi người, bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tham gia và được hưởng lợi từ các hoạt động của nền kinh tế”, bà Mira Tayyiba cho hay.

Tuy vậy, Bộ trưởng Bộ TT&TT Indonesia cho rằng: Khả năng tiếp cận dịch vụ số do hạ tầng thiếu hụt hoặc chi phí cao hoặc không đủ năng lực sử dụng công nghệ số chắc chắn sẽ làm rộng thêm khoảng cách số. Vì thế khả năng kết nối và băng thông phải được tăng lên.

Trong bối cảnh này, Chính phủ Indonesia đã thông qua các bộ, ban, ngành có liên quan đã tập trung vào việc cung cấp truy cập Internet đáng tin cậy với giá cả phải chăng cũng như trang bị cho người dân kiến thức cần thiết để sẵn sàng số hóa.

Trao đổi tại phiên bàn tròn, từ kinh nghiệm của đơn vị đã và đang tham gia cùng các cơ quan Chính phủ trong việc đưa dịch vụ của nhà nước đến với người dân, Tổng giám đốc Viettel Lê Đăng Dũng đã chỉ ra một trong những thách thức đối với chuyển đổi số thời kỳ hậu đại dịch là việc duy trì niềm tin trong môi trường số để mọi người tự tin làm việc và sinh sống chủ yếu trong môi trường đó.

“Đảm bảo an ninh mạng là điều kiện tiên quyết. Việc xây dựng một môi trường kỹ thuật số an toàn và minh bạch phải là nhiệm vụ chung của các chính phủ và doanh nghiệp”, ông Lê Đăng Dũng nhấn mạnh.

Nhóm phóng viên ICT

Hội nghị bàn tròn ITU 2021: Động lực chuyển đổi số từ khu vực công

Hội nghị bàn tròn ITU 2021: Động lực chuyển đổi số từ khu vực công

Chuyển đối số khu vực công sẽ mang đến những động lực to lớn thúc đẩy quá trình số hóa. Trong quá trình này, Chính phủ nắm vai trò dẫn, định hướng phát triển và đảm bảo sự công bằng trong tiếp cận số đến tất cả mọi người dân.

" alt="Chuyển đổi số đang giúp tạo ra bộ chiến lược nâng cao mức sống cho người dân" width="90" height="59"/>

Chuyển đổi số đang giúp tạo ra bộ chiến lược nâng cao mức sống cho người dân