|
Trong bài “Chuyển đổi số - hướng đi tất yếu của doanh nghiệp”, đã giải thích được phần nào “Chuyển đổi số là gì”, các công nghệ số gồm những thành phần nào, doanh nghiệp nên bắt đầu từ đâu, vai trò của nhà nước ra sao. Và trong bài “Kết nối 5G, 300 chim sáo chết và thuyết âm mưu” đã cho ta thấy tầm quan trọng của công nghệ 5G trong hạ tầng Chuyển đổi số, không chỉ đơn thuần là thế hệ thứ năm của mạng di động mà còn là cuộc cách mạng công nghệ mới, giúp phát triển các lĩnh vực khác như máy với máy (M2M), Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI)...
Nhiều người muốn tôi viết sâu hơn về chuyển đối số cho một ngành cụ thể, chẳng hạn như viễn thông hay dịch vụ công hay ngân hàng, nhưng tôi muốn bắt đầu từ ngành Giáo dục và đào tạo “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Vai trò của ngành CNTT vô cùng quan trọng, nó là công cụ không thể thiếu được trong chuyển đổi số quốc gia và cần những con người có khả năng tư duy tốt, được đào tạo bài bản, nắm bắt công nghệ tiên tiến, đồng thời biết phân tích và dịch các yêu cầu kinh doanh thành các chức năng CNTT. Để từ đó, các lập trình viên có thể phát triển, mô hình hóa, khái quát hóa các cơ sở dữ liệu, thiết kế kiến trúc hệ thống CNTT trên những nền tảng phức tạp như Điện toán đám mây – Cloud platform, dữ liệu lớn… bắt kịp với những công nghệ số mới nhất.
Chúng ta mới giáo dục “thích” nhưng chưa “yêu” CNTT
Chúng ta có quyền tự hào về truyền thống hiếu học của dân tộc ta, về Nguyễn Hà Đông- cha đẻ của Flappy Bird, người đã làm nóng thế giới trong tháng 5/2013. Cái tên Việt Nam nổi lên như một hiện tượng mới trong CNTT. Rất tiếc Flappy Bird chỉ là ngôi sao băng, sáng lên trong giây lát rồi biến mất, không kèn, không trống, nhưng khẳng định cho thế giới rằng: "Vâng, chúng ta có thể".
So với các nước trong khu vực, Việt Nam có rất nhiều người có bằng cấp cao trong CNTT, nhiều trường đại học đào tạo CNTT. Các gia đình và đất nước cũng đã tốn rất nhiều tiền và thời gian cho chuyện học hành, nhưng đầu ra lại rất khiêm tốn. Như Bộ trưởng Bộ TT&TT đã từng nói, chúng ta thiếu những sản phẩm “Made in Vietnam”.
Lý giải việc này thế nào? Có phải chúng ta chỉ học để lấy bằng, mới giáo dục “thích” nhưng chưa “yêu” CNTT và chương trình đào tạo còn khô khan, lỗi thời, không nắm bắt kịp với những xu hướng phát triển của thế giới, hay do doanh nghiệp nhà nước chỉ tin những sản phẩm nước ngoài, không tin người Việt có thể làm được, không ủng hộ các phần mềm. Liệu có phải do các doanh nghiệp trong nước phát triển vì sính ngoại hay vì chất lượng và tài liệu của họ tốt hơn? Hay chúng ta chỉ đầu tư cho phần cứng nhưng lại quên mất lĩnh vực phần mềm vì các lãnh đạo không nhìn thấy và sờ được nó, thì khó quyết toán? Chúng ta có cần nhiều trường đại học hay nhiều người có bằng CNTT hay không, khi có người có bằng thạc sĩ CNTT nhưng chưa viết được một chương trình nhỏ, không thoát khỏi vòng lặp vô tận từ mười dòng lệnh trong chương trình? Tôi có thể khẳng định là không. Chúng ta cần có nhiều sản phẩm “Made in Vietnam” như Flappy Bird hay WhatsApp hay Facebook… và cũng như bóng đá phải được rèn luyện và đào tạo từ chương trình phổ thông tới đại học, được làm việc thực tế, thì mới có thể giỏi và thành công được.
Chuyển đổi số trong ngành Giáo dục và đào tạo như thế nào?
Muốn làm được chuyển đổi số trong ngành Giáo dục và đào tạo, chúng ta cần phải xác định đâu là giá trị cốt lõi của ngành. Câu trả lời đơn giản, đó là giáo dục và đào tạo. Vậy ai là khách hàng của ngành, có phải là sinh viên không? Nếu là sinh viên, ngành đã làm gì để truyền cảm hứng, nâng cao trải nghiệm CNTT cho các em? Các em chỉ có mong muốn nhỏ nhoi là truy cập thông tin các môn học cũng không được vì Cổng thông tin điện tử của trường còn chậm hơn cả ốc sên.
Do đó, chúng ta cần nắm kỹ những điểm mạnh, điểm yếu, những thách thức và hiện trạng CNTT của các trường đại học và cao đẳng, để đưa ra được chiến lược chuyển đổi số cho ngành giáo dục và đào tạo. Từ xa, tôi chỉ phỏng vấn được một vài giáo viên bộ môn, nguyên trưởng khoa, đến hiệu phó trường của một số trường đại học và cao đẳng nên không nắm được hết thông tin chi tiết như mong muốn.
Từ đó có thể tóm tắt một cách khái quát như sau: Điểm mạnh của chúng ta là có số lượng trường lớn đào tạo CNTT, có mạng LAN đã kết nối Internet, có cổng thông tin điện tử. Các chương trình, giáo trình, giáo án, học liệu được chia sẻ qua hệ quản lý văn bản và tài liệu hay Google drive. Thông tin của học sinh và giáo viên được tin học hóa phần nào và tận dụng tối các phần mềm mã nguồn mở.
Điểm yếu của chúng ta là kết nối Internet của nhiều trường rất chậm, không có hệ quản lý học sinh hay giáo viên tập trung, rất ít trường có cổng thông tin điện tử tốt, được cập nhật thường xuyên hay thư viện số hay hệ thống quản lý tài liệu tập trung để lưu trữ chương trình, giáo trình, giáo án, học liệu… và sách nghiên cứu. Các dữ liệu không được sao lưu, các hệ thống không có khả năng vận hành 100%, kể các khi thảm họa xảy ra như cháy, lũ lụt, hay bị virus xóa, hay tin tặc cưỡng chiếm dữ liệu. Chính vì vậy có trường đại học có hệ thống quản lý tài liệu nhưng vẫn dùng giấy vì một ngày mát trời Trung tâm CNTT thông báo tất cả dữ liệu đã bị mất và không có sao lưu.
Về cơ hội, chương trình chuyển đổi số quốc gia yêu cầu rất lớn số lượng người nắm bắt được công nghệ số mới. Có rất nhiều chương trình mã nguồn mở, miễn phí, như các nền tảng Dữ liệu lớn, Điện toán đám mây chất lượng tốt, an toàn, có thể chia sẻ tài nguyên, giảm chi phí phát triển.
Về thách thức, các chương trình, giáo trình không theo kịp các xu hướng mới trong CNTT. Các giáo trình bị sao chép từ Google drive, nhiều thông tin nhạy cảm và nghiên cứu có giá trị của nhiều trường bị “phơi” trên các email server, trang chia sẻ tài liệu miễn phí. Nhiều giáo viên không đủ trình độ hoặc bắt kịp với các phương thức giảng dạy có sử dụng công nghệ. Hoặc bản thân họ có sức ỳ lớn, không muốn thay đổi.
" alt="Chuyển đổi số trong Giáo dục và đào tạo ở Việt Nam nên đi theo hướng nào?"/>