Đại diện nhóm nghiên cứu, PGS Nguyễn Quý Thanh (Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục, ĐHQG Hà Nội) nhìn nhận, sau 4 năm tổ chức, kỳ thi THPT quốc gia bám sát yêu cầu Nghị quyết 29 "đã cho thấy những chuyển biến tích cực".
PGS Nguyễn Quý Thanh, Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội (Ảnh: VNU)
Vẫn còn gian lận
PGS Thanh nhận định việc tổ chức một kỳ thi tại các cụm địa phương đã tạo nên sự đồng thuận xã hội vì đáp ứng yêu cầu gọn nhẹ, tiết kiệm, giảm áp lực cho thí sinh, gia đình.
Thêm vào đó, việc các thí sinh thi trắc nghiệm với tất cả các môn ngoại trừ môn Ngữ văn đã giảm bớt hiện tượng quay cóp, chép bài nhau. Học sinh không thể học lệch, học tủ mà phải nắm được kiến thức tổng quát mới đạt kết quả cao. Nhờ đó đã không còn hiện tượng lò thi hay “phao thi”.
Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực ấy vẫn có những bất cập.
Cụ thể, vẫn còn một số tiêu cực gian lận trong quá trình triển khai công tác chấm thi ở một số địa phương.
Kết quả thi chưa đảm bảo tính ổn định. Ví dụ, có những năm tỉ lệ điểm 10 cao đột biến đã gây ra băn khoăn trong dư luận xã hội về tính trung thực, khách quan của kết quả thi.
Tuy nhiên, GS Thanh cho rằng, vẫn cần thiết tiếp tục duy trì mô hình thi THPT quốc gia như hiện nay để đảm bảo tính ổn định, phát huy những điểm tích cực.
“Muốn phát huy được điều đó, trước nhất cần phải bổ sung, nâng cao chất lượng ngân hàng câu hỏi, câu hỏi tích cực đồng thời hoàn thiện kỹ thuật trong công tác tổ chức thi.
Ngoài ra cần phát huy triệt để tính ưu việt của bài thi chuẩn hóa, trong đó cần bảo mật tối đa cho câu hỏi đã được chuẩn hóa, sử dụng điểm thi năng lực để dư luận không còn phải băn khoăn về kết quả thi vì độ khó của kỳ thi qua các năm là khác nhau” – GS Thanh chia sẻ.
Đề xuất tổ chức ma trận chấm thi để chống tiêu cực
Còn PGS.TS Nguyễn Phương Nga, Giám đốc Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục (Hiệp hội các Trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam) lập luận rằng: Thi THPT không phải là kỳ thi tuyển chọn mà là kỳ thi nhằm đánh giá học sinh đủ năng lực để hoàn thành khối THPT. Vì vậy, có thể có nhiều học sinh đạt điểm cao, nhưng cũng có thể là không cao. "Không thể đòi hỏi sự ổn định về số % điểm giỏi hay khá qua các năm mà phải phụ thuộc vào năng lực của học sinh".
PGS.TS Nguyễn Phương Nga, Giám đốc Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục (Ảnh: Thúy Nga)
Bà Nga giới thiệu 3 xu hướng tổ chức kỳ thi THPT quốc gia: Xu hướng thứ nhất, không thi THPT quốc gia. Hiệu trưởng các trường THPT sẽ cấp giấy chứng nhận hoàn thành THPT cho học sinh. Xu hướng này có ít nước đi theo, tiêu biểu như Hàn Quốc hay Úc. Tuy nhiên ở Úc đã có kỳ thi khác lồng ghép vào.
Xu hướng thứ hai, tổ chức thi THPT trong đó có sự vào cuộc của các tổ chức, cơ quan Nhà nước (ở đây là các Bộ) điều hành tổ chức. Một số quốc gia đi theo xu hướng này như Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Hà Lan, Phần Lan.
Xu hướng thứ ba, có thi THPT nhưng do các đơn vị khảo thí chuyên nghiệp đứng ra tổ chức và một năm thi nhiều lần.
Trong 3 xu hướng này, xu hướng thứ hai và thứ ba được áp dụng nhiều ở các nước tiên tiến và một năm tối thiểu thi 2-3 lần. Ví dụ ở Mỹ, các tổ chức khảo thí chuyên nghiệp thi 4-6 lần/ năm. Các thí sinh tự do thi, đăng ký theo nguyện vọng thi để tự đánh giá năng lực của mình.
“
Tham gia Hội thảo có hơn 400 đại biểu đại diện lãnh đạo các Bộ, ban ngành, cơ quan Trung ương; đại diện lãnh đạo các Sở Giáo dục và Đào tạo, trường đại học, trường phổ thông cùng các chuyên gia, các nhà khoa học.
Bà khẳng định sự cần thiết vẫn duy trì kỳ thi THPT quốc gia và đề xuất: Trong thời gian đợi chờ sự thay đổi lớn, năm 2019-2020, cơ chế tuyển sinh cần phải làm chặt hơn nữa để tránh các hiện tượng tiêu cực. Song song với đó, phần mềm chấm thi, quản lý thi phải được hoàn thiện.
Ngoài ra, cần có một "ma trận tổ chức chấm thi" để tránh hiện tượng bắt tay nhau giữa các tỉnh. "Ma trận" này sẽ phức tạp hơn việc chấm chéo giữa các tỉnh với nhau.
Về lâu dài, bà Nga nói có thể tổ chức 2-3 lần/năm; tổ chức thi trên máy tính thí nghiệm vào năm 2021-2023 trên tinh thần tự nguyện. Đến năm 2024, hình thức này sẽ được áp dụng chuyên nghiệp.
Cần những con số thuyết phục hơn
Góp ý về báo cáo của PGS Nguyễn Quý Thanh, PGS.TS Hoàng Minh Sơn (Hiệu trưởng Trường ĐH Bách khoa Hà Nội) cho rằng, những phân tích, đề xuất nói trên mới chỉ đưa ra dựa vào cơ sở lý luận nghiên cứu từ các văn bản, chính sách mà chưa đưa ra những con số thuyết phục.
“Tôi nghĩ rằng, khi đánh giá về 5 năm đổi mới theo Nghị quyết của Trung ương cần bám sát vào những nhiệm vụ, giải pháp trong Nghị quyết đề ra".
Ông Sơn khuyến nghị nhóm nghiên cứu nên tập trung làm rõ kết quả đạt được mức độ như thế nào ở 4 điểm.
Thứ nhất là yêu cầu "giảm áp lực tốn kém cho xã hội". Điều này tất cả chúng ta đều thấy rõ nhưng vẫn cần số liệu để thuyết phục. Bằng những con số minh chứng sẽ thuyết phục được toàn xã hội.
Thứ hai là "tạo độ tin cậy, trung thực bằng cách thay đổi đề thi, cách thức ra đề thi, tổ chức coi, chấm thi, nâng cao trách nhiệm của các trường đại học, các Sở GD&ĐT và các trường THPT". Rõ ràng, so với những năm trước kia, việc thi THPT quốc gia đã có sự thay đổi lớn trong quan điểm, trong tính nghiêm túc của các trường đại học cũng như các Sở GD&ĐT và các trường THPT. Việc tạo độ tin cậy như thế nào cũng cần phân tích, làm rõ để thuyết phục xã hội.
Thứ ba, nhóm nghiên cứu cần phải đi sâu vào yêu cầu "đánh giá đúng năng lực học sinh" về mặt khoa học và số liệu thực tế, thông qua những khảo sát học sinh phổ thông, khảo sát giáo viên và các trường đại học.
Cuối cùng là yêu cầu "cơ sở cho tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học". Ông Sơn nhìn nhận việc tổ chức thi xét tuyển đại học đã có sự chuyển biến lớn, trơn tru và thuận tiện hơn, "đúng theo tinh thần Nghị quyết 29".
"Còn một điều tôi muốn góp ý thêm, là chúng ta chưa nhắc đến phẩm chất của thí sinh. Rõ ràng, với một sinh viên, ngoài yếu tố năng lực thì phẩm chất cũng rất quan trọng. Ở các trường đại học nước ngoài còn thêm một vòng phỏng vấn nhằm có thể đánh giá được phẩm chất người học. Tôi đề xuất cũng nên nghiên cứu điều này".
Thúy Nga
6 nhóm giải pháp đã được đại diện các Sở GD-ĐT đề xuất tới Bộ GD-ĐT để kỳ thi THPT quốc gia năm 2019 được tổ chức tốt hơn.
" alt=""/>“Kết quả thi THPT quốc gia chưa ổn định”Cũng theo PGS.TS Cơ, là bệnh viện lớn, 10 năm qua Bạch Mai chủ trương xã hội hóa, hiện nhiều thiết bị y tế máy đặt, máy mượn, liên doanh… dừng hoạt động vì phát hiện một số thiết bị không đáp ứng đủ điều kiện.
Một số thiết bị hiện đại (máy chụp chiếu, cộng hưởng từ, máy kĩ thuật cao, robot) vướng vào quy định pháp lý cũng phải đắp chiếu, không thể phục vụ cho bệnh nhân BHYT mà đối tượng này chiếm đến 90% tại Bệnh viện Bạch Mai.
Bệnh viện Bạch Mai cũng đã có văn bản, báo cáo làm sao tháo gỡ vướng mắc này cùng chung tay đưa các thiết bị y tế đang đắp chiếu sớm phục vụ người bệnh. BHXH Việt Nam cũng đang có các giải pháp đưa thiết bị này vào hoạt động trở lại.
Thứ 2, hiện số lượng bệnh nhân tăng đột biến làm thiếu thuốc, vật tư không chỉ Bệnh viện Bạch Mai mà nhiều viện cũng như vậy. Hiện tại nhiều vật tư tiêu hao trúng thầu nhưng các đơn vị cung cấp không cung cấp được. Các công ty chào thầu không chào thầu, do hơn 2 năm chống dịch, nhiều công ty có sản phẩm thông dụng, nhiều công ty phá sản nên không thể cung ứng, chào thầu. Các mặt hàng này so với giá đã trúng thầu các năm qua đã tăng nhiều, các công ty báo không thể chào thầu do e ngại bị lỗ.
Ngoài ra còn nguyên nhân chủ quan khác, PGS.TS Đào Xuân Cơ phân tích liên quan đến văn bản mua sắm thiết bị y tế. “Hiện một số văn bản, nghị định không còn cập nhật gây khó khăn liên quan mua sắm đấu thầu, thuốc vật tư”, Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai thông tin.
Về ý kiến các Giám đốc bệnh viện, sở y tế… có tâm lý e ngại việc mua sắm, đấu thầu, PGS.TS Cơ cho rằng: “Nếu văn bản pháp quy rõ ràng, tạo điều kiện cho việc mua sắm minh bạch, công khai chắc chắn các nhà quản lý, giám đốc bệnh viện… không khó khăn trong việc mua sắm vật tư y tế. Sắp tới, các văn bản pháp quy được sửa sẽ không còn sự e dè nào”.
Người đứng đầu Bệnh viện Bạch Mai phân tích thêm, văn bản pháp quy ảnh hưởng sâu sắc tới cơ sở. Khi cơ sở thực hiện phải bám vào văn bản pháp quy. Các cơ quan hậu kiểm cũng chỉ căn cứ vào văn bản pháp quy để kiểm tra.
“Đó là nguyên nhân gây e ngại cho cơ sở chứ không phải các cơ sở e ngại việc mua sắm thuốc, thiết bị y tế. Tôi đề nghị sớm sửa văn bản mang tính cứng nhắc sẽ khiến người đứng đầu các cơ sở tự tin làm các bài thầu”, PGS.TS này khẳng định.
PGS.TS Cơ cũng đưa ra ví dụ Bệnh viện Bạch Mai quyết liệt chuẩn bị trong mua sắm thuốc, vật tư cho người bệnh. Riêng thuốc chỉ thiếu 5-10% do nguyên nhân khách quan như các nhà cung ứng không có. Còn hầu hết các thuốc thiết yếu cơ bản đều đáp ứng dù số bệnh nhân tăng đột biến.
“Tình trạng thiếu thuốc ở Bệnh viện Bạch Mai không trầm trọng do chúng tôi có các giải pháp như liên hệ với các viện xung quanh Hà Nội và viện khác để trao đổi, chia sẻ thuốc".
Liên quan vấn đề này, TS Bùi Thị An, nguyên đại biểu Quốc hội khóa XIII, cũng cho rằng an sinh xã hội là một trong 3 trụ cột phát triển đất nước. Nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, yếu tố sức khỏe là số một. Thiếu thuốc là vấn đề khá lớn hiện nay, không chỉ riêng Bệnh viện Bạch Mai mà còn ở 28 bệnh viện, 12 sở y tế.
“Chúng ta không có đủ thuốc là vấn đề của cả xã hội chứ không chỉ riêng ngành y. Giai đoạn vừa rồi có 1 số vấn đề trong ngành y chúng ta nên gỡ dần, kiến nghị Chính phủ xem chính sách có gì vướng cần rà soát, sửa đổi, đặc biệt văn bản đấu thầu”, TS An nói.
Đồng quan điểm, TS Nguyễn Thị Hồng Ngọc, Phó Giám đốc Trung tâm Mua sắm tập trung thuốc quốc gia, Bộ Y tế, nhấn mạnh thiếu thuốc, vật tư y tế không phải vấn đề mới có mà rất lâu rồi nhưng tình trạng thiếu ở mức độ nào, thiếu ra sao. Cũng theo TS Ngọc, vừa qua Bộ Y tế đã quyết định lập 4 đoàn đi kiểm tra vấn đề thiếu thuốc, vật tư ở cơ sở y tế.
“Chúng ta cần số liệu, khảo sát rõ ràng mới có giải pháp khắc phục. Ở nguyên nhân liên quan pháp lý, theo ý kiến cá nhân của tôi, hầu như 90% văn bản pháp lý không theo kịp được thực tế. Đây cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến nguyên nhân thiếu thuốc, vật tư y tế”, TS Ngọc nói.
Ngoài ra, quá trình thực thi, các đơn vị, cá nhân thực thi như thế nào cũng góp phần thiếu thuốc, trang thiết bị y tế. TS Ngọc cũng nêu: “Có những danh mục thuốc thừa. Chúng tôi cũng có yêu cầu khi lập kế hoạch đấu thầu phải dùng 80% nhưng có những thuốc nhu cầu sử dụng chỉ 20%. Như vậy không phải thiếu thuốc ở tất cả các loại, các đơn vị”.
Từ đó, TS Ngọc cho rằng, cần dựa vào kết quả của 4 đoàn kiểm tra do Bộ Y tế lập để có đánh giá, giải pháp góp phần khắc phục tình trạng thiếu thuốc, trang thiết bị vật tư y tế.
“Tình trạng này cũng xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Hiện các văn bản đưa vào đấu thầu cũng đã có cập nhật nhưng chưa đuổi kịp các yếu tố xã hội nên cần sửa đổi kịp thời tạo điều kiện cho các đơn vị mua sắm, đấu thầu”.