![](<p style=)
Trong bài viết gửi tới tòa soạn, thầy giáo Trương Như Đệ ở Gia Lai cho rằng việc bỏ cộng điểm thi nghề trong tuyển sinh lớp 10 hoặc tốt nghiệp THPT sẽ giúp học sinh bớt đi áp lực thời gian học – thi, giảm một gánh nặng cho nhà trường...Dưới đây là góc nhìn của thầy giáo Trương Như Đệ về dự kiến bỏ cộng điểm thi nghề trong tuyển sinh lớp 10.
![{title} {keywords}](http://f.imgs.vietnamnet.vn/2018/01/11/09/bo-cong-diem-thi-nghe-vao-lop-10.jpg) |
(Ảnh: Đinh Quang Tuấn) |
Nghe tin Bộ GĐ-ĐT dự thảo bỏ cộng điểm thi nghề vào lớp 10, học sinh em mừng - em lo, phụ huynh người đồng tình - kẻ phản đối, giáo viên người phấn khởi - người ưu tư.
Riêng tôi rất ủng hộ, không chỉ bỏ điểm thi nghề khi tuyển sinh lớp 10 mà cần bỏ luôn việc cộng vào kết quả tốt nghiệp THPT.
Bởi vì…
Giáo dục giảm bớt một khối u “bệnh thành tích”
Để có được kết quả cao khi xét tuyển vào lớp 10 hoặc thi tốt nghiệp THPT, các trường không ngần ngại ép buộc học sinh học nghề, không cần biết các em có nhu cầu hay không. Thậm chí, có trường, có giáo viên còn "dọa" hạ hạnh kiểm học sinh nào không tham gia học nghề.
Điểm kiểm tra nghề thì chỉ có khá và giỏi, tìm điểm trung bình như mò kim đáy bể. Thi nghề thì không có khái niệm hỏng, tối thiểu cũng trung bình.
“Mảnh đất” tiêu cực trong giáo dục được thu hẹp
Để có được bộ "hồ sơ đẹp" dự tuyển vào lớp 10 hoặc dự thi THPT, phụ huynh, nhất là phụ huynh có điều kiện và quan tâm việc học của con, thường hay "tiếp cận" với nhà trường, thầy cô.
Không ít trường hợp được "nâng đỡ không trong sáng", không ít trường hợp “lọt qua khe cửa hẹp” nhờ thần hộ mệnh "điểm nghề".
Giảm một gánh nặng cho nhà trường
Ngoài việc triển khai thực hiện chương trình phổ thông, các trường THCS, THPT phải gánh thêm chương trình dạy nghề. Trong đó, THCS là 70 tiết, THPT là 105 tiết gồm nghề làm vườn, tin học văn phòng, điện dân dụng, trồng rừng, nấu ăn, thêu tay, cắt may...
Những nghề này tôi từng hỏi học sinh thích không, thì được nghe các em đồng thanh "Không!".
Việc dạy nghề là một cực hình đối với trường phổ thông, vì giáo viên phổ thông không có chuyên môn nghề. Vậy nên, hầu hết các trường hiện nay (ở Gia Lai) chủ yếu thực hiện chương trình nghề tin học văn phòng nhờ thiết bị và giáo viên sẵn có. Tức là dạy cái trường có chứ không phải dạy cái học sinh cần.
Học sinh bớt đi áp lực thời gian học - thi
Bớt được 70 tiết với học sinh THCS và 105 tiết với học sinh THPT là bớt được áp lực thời gian học cho các em, đặc biệt là áp lực thi "tốt nghiệp nghề" - tốt nghiệp để được hành nghề cộng điểm.
Hướng nghiệp cho học sinh thế nào?
Bỏ cộng điểm nghề đi liền với bỏ chương trình học nghề trong trường phổ thông. Tuy nhiên, cần thiết phải tăng cường hướng nghiệp cho các em theo định hướng chương trình giáo dục phổ thông mới.
Điểm mới nhất của kế hoạch giáo dục cấp THCS mới chính là nội dung hướng nghiệp được yêu cầu tích hợp vào các môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc.
Tôi đề nghị không chờ Chương trình giáo dục phổ thông mới, mà Bộ cần hướng dẫn các nhà trường, giáo viên bộ môn thực hiện ngay.
Ở bậc THPT, theo Chương trình mới, mỗi môn học Ngữ văn, Toán, Lịch sử, Địa lý, Giáo dục kinh tế và pháp luật, Vật lý, Hoá học, Sinh học, Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật có một số chuyên đề học tập tạo thành cụm chuyên đề học tập của môn học. Việc này giúp học sinh tăng cường kiến thức và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức, giải quyết những vấn đề của thực tiễn, đáp ứng yêu cầu định hướng nghề nghiệp.
Vậy nên, trước mắt thầy cô giáo bộ môn cần vận dụng tích hợp nội dung hướng nghiệp trong từng chương, từng bài giảng. Đồng thời, các trường THPT tăng cường quản lý, triển khai có hiệu quả chương trình hướng nghiệp hiện hành, chuẩn bị cho Chương trình mới.
Nhưng tất nhiên, năm học 2017-2018 này chưa nên bỏ cộng điểm nghề vì mọi việc đã vào khuôn khổ.
Trương Như Đệ
![Bỏ cộng điểm nghề: "Khắc phục hiện tượng làm đẹp hồ sơ"](http://f.imgs.vietnamnet.vn/2018/01/09/16/t5-3.JPG?w=145&h=101)
Bỏ cộng điểm nghề: "Khắc phục hiện tượng làm đẹp hồ sơ"
Theo đại diện Bộ GD-ĐT, chủ trương bỏ quy định cộng điểm khuyến khích trong tuyển sinh vào lớp 10 nhằm đảm bảo mục tiêu chọn được đúng học sinh có khả năng tiếp tục học ở cấp THPT, đồng thời khắc phục hiện tượng làm "đẹp hồ sơ".
" alt="Bỏ cộng điểm thi nghề, nhà trường và học sinh giảm gánh nặng"/>
Bỏ cộng điểm thi nghề, nhà trường và học sinh giảm gánh nặng
- Tại hội thảo về thực trạng quản lý đô thị và nhu cầu nguồn nhân lực diễn ra ngày 22/12, khoa Các khoa học liên ngành (ĐHQG Hà Nội) đã giới thiệu chương trình đào tạo thạc sĩ quản lý phát triển đô thị.![{title} {keywords}](http://f.imgs.vietnamnet.vn/2017/12/23/06/thi-diem-dao-tao-thac-si-quan-ly-phat-trien-do-thi.jpg) |
Toạ đàm về nhu cầu nguồn nhân lực |
Chương trình có định hướng ứng dụng, nhằm mục tiêu đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực liên quan đến vấn đề quản lý phát triển đô thị.
Khung chương trình gồm 69 tín chỉ, tương ứng với 7 môđun kiến thức: Đô thị và bối cảnh phát triển, Dân cư và xã hội đô thị, Kinh tế và tài chính cho phát triển đô thị, Môi trường đô thị bền vững, Quy hoạch chiến lược phát triển đô thị, Công cụ tích hợp trong quản lý phát triển đô thị và Đồ án/Dự án liên ngành.
Chương trình tuyển sinh 2 đợt trong 1 năm với đối tượng đa dạng và không có bước học thi chuyển đổi. Tuyển sinh bằng thi tuyển theo phương thức đánh giá năng lực của ĐHQG Hà Nội, bao gồm môn thi cơ bản là Đánh giá năng lực, môn thi cơ sở là Lịch sử phát triển đô thị và môn tiếng Anh.
Sau 15 tháng nghiên cứu xây dựng giải pháp đào tạo nhân sự chất lượng cao về quản lý phát triển đô thị tại ĐHQG Hà Nội, hội thảo về thực trạng quản lý đô thị và nhu cầu nguồn nhân lực liên ngành đã được tổ chức tại Hà Nội ngày 22/12.
Phát biểu tại hội thảo, nhiều diễn giả đã nêu bật nhu cầu còn thiếu cũng như hướng tiếp cận mới để cung cấp nguồn nhân lực liên ngành cho xã hội trong bối cảnh sau hiện đại.
Theo ông Hoàng Hữu Phê, Chủ tịch Hội đồng quản trị Vinaconex R&D, các xu thế phát triển mới tại đô thị Việt Nam đang đặt ra các thách thức trong việc đào tạo nhân lực quản lý thích hợp. Thách thức này tập trung vào 2 lĩnh vực chính là kiến thức cơ bản về đô thị và các kỹ năng quản lý đô thị.
Ông Nguyễn Tố Lăng, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kiến trúc Hà Nội cho biết, hiện nay nước ta có 802 đô thị và mức độ đô thị hoá là 36,6%. Để có được các đô thị phát triển mạnh mẽ và bền vững, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng bậc nhất. Bên cạnh chương trình đào tạo Quản lý đô thị nói chung theo hình thức đơn ngành đang được đào tạo với quy mô lớn ở nhiều trường đại học chuyên ngành, nhu cầu về đào tạo thạc sỹ liên ngành ngày càng cao.
![{title} {keywords}](http://f.imgs.vietnamnet.vn/2017/12/23/06/thi-diem-dao-tao-thac-si-quan-ly-phat-trien-do-thi-1.jpg) |
TS Nguyễn Hồng Thục. Ảnh: Vũ Tùng |
TS Nguyễn Hồng Thục, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Định cư phân tích: Chỉ ở Việt Nam mới có nghịch lý phát triển: đô thị hoá xảy ra nhiều thập kỷ trước khi công nghiệp hoá (trong khi các nước phát triển đã khẳng định quy luật đô thị hoá là hệ quả, con đẻ của công nghiệp hoá), càng làm cho vấn đề đô thị hoá buộc phải trở thành “phao cứu sinh” của nền kinh tế. Nghịch lý này làm cho đô thị luôn đối đầu với vấn nạn kẹt xe, tắc đường, ô nhiễm, thiếu nước sạch, thực phẩm bẩn, mất an ninh và trật tự công cộng...Bài toán đô thị hoá ở Việt Nam càng thêm khó khăn, đòi hỏi nguồn nhân lực thực sự giỏi, thông minh hơn để bứt phá.
Tại các trường đại học lớn trên thế giới, đô thị học là một khoa học mang tính liên ngành, do xuất phát từ đặc điều của đô thị là đa chiều, đa dạng, đa mục tiêu.
Tại Việt Nam, nguồn nhân lực liên quan tới quản lý và quy hoạch đô thị hầu như đều có cách tiếp cận vấn đề theo tư duy đơn ngành, cục bộ, khó phối kết hợp trong định hướng phát triẻn, tổ chức không gian hoạt động, xây dựng và quản lý đô thị, thiếu tính tổng thể bao quát, làm hạn chế sức sáng tạo và liên kết ngày càng đòi hỏi cao hơn trong thực tiễn.
Hạ Anh
" alt="Thí điểm đào tạo thạc sĩ quản lý phát triển đô thị"/>
Thí điểm đào tạo thạc sĩ quản lý phát triển đô thị