Một sinh viên lớp bác sĩ liên thông y học cổ truyền đã cùng lúc kiện ba bị đơn ra tòa vì cho rằng những người này đã làm ảnh hưởng đến kết quả học tập,ữuSinhviênkiệnhiệutrưởgiá vàng sjc giá vàng hôm nay khiến bà bị ngưng một năm học.
Các yếu tố khác bao gồm sự linh hoạt, khả năng mở rộng, tốc độ nhanh nhạy của các hệ thống đám mây so với hệ thống tại chỗ. Như chúng ta thường thấy trong thực tế, hệ thống viễn thông đối mặt với những lúc cao điểm cả về vận hành lẫn lưu trữ dữ liệu. Chẳng hạn, nó xảy ra vào các dịp lễ Tết hay sự kiện lớn. Trong phần lớn thời gian, hoạt động thấp hơn nhiều. Vì vậy, các hệ thống tại chỗ phải được cấu hình để chống chọi với những lúc cao điểm, cần tới nhiều máy chủ trị giá hàng tỷ USD nhưng lại không dùng đến vào ngày thường. Khi triển khai trên đám mây, dùng bao nhiêu trả bấy nhiêu, tự động điều chỉnh quy mô một cách linh hoạt sẽ giữ chi phí thấp vào ngày thường nhưng vẫn đảm bảo đủ năng lực cho ngày cao điểm.
Xu hướng ứng dụng đám mây của các nhà mạng
Công bằng mà nói các nhà mạng không xa lạ với điện toán đám mây. Bước chuyển dịch lớn đầu tiên “lên mây” là vào năm 2012. Một số hãng viễn thông lớn như AT&T, Orange, Telecom Italia, Deutsche Telecom và Telefonia đã giới thiệu mô hình ảo hóa chức năng mạng (NFV) và dịch chuyển từ mạng vật lý thuận túy sang chức năng mạng ảo (VNF) để tự động hóa một số phần trong hạ tầng.
Chức năng mạng cloud-native (CNF) về cơ bản mang lại cách thức cung cấp chức năng mạng và cấu hình VNF mới linh hoạt hơn. Dường như, chúng cũng tạo ra giải pháp tốt hơn khi chuyển sang 5G. Theo Analysys Mason, các nhà cung cấp dịch vụ di động (CSP) sẽ chi 114 tỷ USD cho đám mây (bao gồm chức năng đám mây, phần mềm đám mây, phần cứng, dịch vụ liên quan) từ năm 2019 đến năm 2025. Vài năm tới sẽ ghi nhận sự chuyển dịch lớn của nhà mạng “lên mây”, đồng nghĩa, họ sẽ tập trung tốt hơn vào dịch vụ thiết yếu thay vì công nghệ thông tin, cập nhật máy chủ hay bảo trì.
Lợi ích của đám mây với nhà mạng gói gọn trong ba điểm: giảm chi phí vận hành; nâng hiệu quả trung tâm dữ liệu; độc lập về công nghệ thông tin. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều rào cản khiến doanh nghiệp viễn thông chần chừ. Đầu tiên, đó là thiếu kỹ năng và chuyên gia nội bộ. Các phòng ban trong công ty hiểu biết hạn chế về ứng dụng đám mây và chiến lược “lên mây”, vì vậy họ phải tìm tới nhà cung cấp bên ngoài để lấp đầy chỗ trống. Lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ đám mây cũng là vấn đề đau đầu không kém. Ngày nay, có nhiều lựa chọn khác nhau, phổ biến nhất là Microsoft Azure, Amazon Web Services, GCP, Oracle, IBM. Các chuyên gia sẽ giúp nhà mạng thực hiện các dự án lớn liên quan đến tích hợp đám mây.
Một vấn đề khác là bảo mật và quyền riêng tư. Lưu trữ dữ liệu mở và không được mã hóa đúng cách, đặc biệt tại những nước không có trung tâm dữ liệu địa phương là khá rủi ro xét về tính tuân thủ pháp lý. Các hệ thống vẫn bị xem là dễ bị tấn công. Đám mây và công nghệ liên quan phát triển nhanh chóng, khoảng cách giữa dịch vụ đám mây và hệ thống cũ tạo ra lỗ hổng mà tội phạm mạng có thể khai thác.
Cuối cùng, rào cản lớn ngăn nhà mạng ứng dụng đám mây là thiếu lòng tin. Nhà mạng vẫn chưa chắc chắn đám mây có hiệu quả nhiều hơn hệ thống tại chỗ về tiết kiệm chi phí hay không. Có sự hoài nghi lớn rằng chi phí của hệ thống đám mây sẽ nhỏ hơn tổng chi phí sở hữu một hệ thống tại chỗ.
Cách nào để vượt chướng ngại vật?
Điều đầu tiên nhà mạng phải làm là phát triển đội ngũ chuyên gia nội bộ với sự giúp sức của các hãng công nghệ thông tin hàng đầu. Họ có thể tìm đến bên thứ ba để triển khai hệ thống và giải pháp nhanh chóng, nâng cao năng lực và chuyên môn.
Bằng cách này, doanh nghiệp viễn thông sẽ học hỏi kinh nghiệm từ các công ty công nghệ thông tin, hiểu về giải pháp đám mây, tích lũy kiến thức chuyên môn và duy trì tất cả vai trò quan trọng – kiến trúc sư, quản lý dự án, kiến trúc bảo mật – trong công ty.
Đối với chướng ngại thương mại và chi phí, họ có thể vượt qua bằng các dự án PoC (proof of concept – chứng minh tính khả thi và thực tiễn của ý tưởng hoặc phương pháp nào đó). Nhà mạng sẽ sử dụng dữ liệu mẫu hoặc tổng hợp để xem mất bao nhiêu chi phí để triển khai hệ thống trên đám mây, sau đó so sánh với chi phí triển khai tại chỗ tại trung tâm dữ liệu riêng để tìm ra giải pháp nào tiết kiệm hơn. Các dự án PoC khá hữu ích vì cung cấp bài học về khấu trừ chi phí đám mây sau quá trình tích hợp.
Một giải pháp nữa là tạo ra mối quan hệ gần gũi giữa nhà mạng và doanh nghiệp công nghệ thông tin, nhà cung cấp dịch vụ đám mây. Như vậy, nhà cung cấp dịch vụ đám mây sẽ xem nhà mạng là đối tác chiến lươc, đưa ra các mức chiết khấu hấp dẫn và cố vấn để triển khai dự án đám mây.
Về vấn đề dữ liệu cá nhân, các vấn đề pháp lý là chướng ngại lớn khi ứng dụng đám mây tại các nước chưa có trung tâm dữ liệu địa phương. Trong tình thế này, nhà mạng đã bắt đầu tích hợp các giải pháp ẩn danh dữ liệu để bảo vệ thông tin nhạy cảm và thông tin cá nhân của thuê bao. Về cơ bản, nhà mạng tải dữ liệu theo định dạng mã hóa, giảm nguy cơ bị lộ dữ liệu mà vẫn tuân thủ quy định.
Điện toán đám mây có tác động quan trọng đến doanh thu và ngân sách của các nhà mạng thế giới. Nó đã chứng minh tính hiệu quả, tiết kiệm, linh hoạt để lưu trữ và làm việc với dữ liệu. Nhờ sự hỗ trợ của các nhà cung cấp dịch vụ đám mây, nhà mạng có thể tăng cường mức độ phổ biến của các dịch vụ, mở rộng sản phẩm và cải thiện hiệu suất kinh doanh nói chung.
Du Lam
Đón sóng dịch chuyển “đa đám mây”, doanh nghiệp Việt cần chớp thời cơ
Khi việc sử dụng Cloud trên thế giới đã đạt đến mức độ khai thác “sâu và rộng”, thì Multi-Cloud (đa đám mây) sẽ là bước chuyển dịch bứt phá giúp doanh nghiệp nâng cao tiềm lực cạnh tranh trong cuộc chiến điện toán đám mây.
Giáo viên cần phải chú ý trong mối quan hệ với học sinh là sự tôn trọng cá tính, cảm xúc, sự biểu đạt (Ảnh Đinh Quang Tuấn)
Thực chất, vấn đề đặt ra cho giáo viên và trường học hiện nay không phải là bản thân chuyện xưng hô “con” hay “em” mà vấn đề nằm ở tư thế bình đẳng trong việc tiếp cận chân lý và sự tôn trọng lẫn nhau.
Cách gọi “em” hay “con” thực chất đều là cách xưng hô nằm trong lối tư duy “gia trưởng” coi cả xã hội là một gia đình và các thành viên của xã hội là thành viên của gia đình. Chính vì vậy trong cách xưng hô của người Việt, bất cứ ai trong xã hội cho dù xa lạ mới gặp lần đầu hay nhân viên công vụ, quan chức… đều được gọi theo cách gọi các thành viên trong gia đình như cô, dì, chú, bác, anh…thậm chí là “bố”, “mẹ”, “con”. Cách xưng hô này gắn liền với nền tảng văn hóa vì vậy nếu muốn thay đổi sẽ không phải là chuyện đơn giản.
Điều cần thiết và quan trọng mà giáo viên cần phải chú ý trong mối quan hệ với học sinh là sự tôn trọng cá tính, cảm xúc, sự biểu đạt và nhu cầu truy tìm chân lý của các em.
Trên thực tế có những giáo viên trong giao tiếp rất ngọt ngào, khéo léo nhưng lại can thiệp trực tiếp và thô bạo vào cảm xúc, cá tính, sự biểu đạt và thậm chí cả nhu cầu truy tìm chân lý của các em.
Rất có thể trong lòng giáo viên ấy muốn những điều tốt đẹp cho học sinh và làm điều đó với tâm thế của một người “bố”, một người “mẹ”. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa học sinh và giáo viên ở trường học là mối quan hệ dựa trên các quy ước và cam kết xã hội nó không phải là mối quan hệ dựa trên quyền lợi kinh tế và huyết thống. Trường học cũng không phải là gia đình. Vì vậy trong phần lớn các trường hợp, cự can thiệp này của giáo viên đều dẫn đến sự phản kháng của học sinh hoặc tạo ra hiệu quả giáo dục ngược.
Sự ngộ nhận giữa “quyền lực” và “quyền uy”
Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh ở Việt Nam, Takaka Yoshitaka, một chuyên gia người Nhật đã từng có thời gian ba năm ( 2004 - 2007) làm việc ở Việt Nam trong vai trò cố vấn giáo dục đã đưa ra những nhận xét thú vị. Ông cho rằng mối quan hệ thầy trò ở nhà trường Việt Nam bị phá hỏng vì người thầy thường ngộ nhận giữa “quyền lực” và “quyền uy”.
Trong đời sống hàng ngày chúng ta thường dùng lẫn lộn hai từ gần nghĩa là quyền lực” và “quyền uy”. Tuy nhiên, Takana cho rằng trong lĩnh vực giáo dục chúng có hàm nghĩa khác hẳn nhau.
Theo đó, “quyền uy” của người thầy đối với học sinh là việc cho dù người thầy có ý đồ hay không có ý đồ đối với những lời nói, hành động của mình thì học trò vẫn lắng nghe và có thái độ vâng lời.
Ảnh Đinh Quang Tuấn
“Quyền uy” của người thầy sinh ra từ quá trình người học sinh tự mình đánh giá giáo viên ở nhiều phương diện và nếu như trong đầu người học sinh bật ra ý nghĩ “A! đây quả là một người giáo viên đáng kính, một người giáo viên tuyệt vời!” thì trong trường hợp ấy anh ta sẽ tự nguyện trao “quyền uy” cho người thầy. Tức là “quyền uy” là thứ mà học sinh tự nguyện tạo ra rồi trao cho người giáo viên.
Nếu như “quyền uy” là quà tặng tự nguyện của học sinh cho người thầy, thì quyền lực là thứ mà bản thân người giáo viên có thể đơn phương quyết định.
Do đó người thầy “quyền lực” sẽ là người thầy luôn tuyệt đối hóa tính đúng đắn của những chân lý và họ truyền đạt và không chấp nhận các phương thức tiếp cận, diễn giải chân lý khác. Người thầy ấy cũng sẽ có tham vọng ép học sinh phải tuân lệnh vô điều kiện và không bận tâm xem người khác hay học sinh nghĩ gì về mình.
Hậu quả của việc ngộ nhận nói trên đã tạo ra một mối quan hệ trên - dưới giữa giáo viên và học sinh rất nặng nề.
Tanaka đã quan sát và mô tả biểu hiện của mối quan hệ đó thông qua hình ảnh cây thước và tiếng gõ chát chúa của nó lên mặt bảng, mặt bàn khi giáo viên ra hiệu cho học sinh đọc bài. Ông cũng chú ý đặc biệt đến cách giơ tay phát biểu với cánh tay đặt vuông góc trên mặt bàn lẫn không khí nghiêm trang, trật tự đến khó ngờ trong lớp học khi giáo viên giảng bài.
Những biểu hiện đó, theo ông, thể hiện một sự thật “Trong lớp học người giáo viên đã trở thành người có quyền lực tuyệt đối. Người thầy đã trở thành biểu tượng của quyền lực khi nắm trong tay cả tri thức và kĩ năng”. Điều này tất yếu dẫn tới hệ lụy học sinh không có được tâm thế, tinh thần thoải mái để học tập.“Trong giờ học không hề thấy ở các em học sinh dáng vẻ tự nhiên vốn có…thông thường thì lớp học sẽ phải đầy ắp bầu không khí sôi nổi nhưng có vẻ như tinh thần của học sinh ở đây dường như lại ở một thế giới khác”.
Không thể không sửa đổi
Câu chuyện về sự xưng hô giữa giáo viên và học sinh ở trên thực chất là sự phản ánh bề ngoài của vấn đề dân chủ hóa đời sống trường học.
Trường học trong xã hội hiện đại không còn là nơi độc quyền cung cấp tri thức cho học sinh nữa. Vì thế, trong lý luận giáo dục hiện đại, người thầy sẽ trở thành người khơi nguồn cảm hứng, trợ giúp, tư vấn và dẫn đường cho học sinh thay vì là người truyền đạt tri thức thuần túy và áp đặt giá trị quan, đạo đức lên học sinh.
Thực chất của quá trình học tập của học sinh ở trường học là quá trình “xã hội hóa” - quá trình học sinh cải biến mình để trở thành một thành viên của xã hội. Trong quá trình “xã hội hóa” đó, không chỉ chương trình – sách giáo khoa mà bầu không khí trong nhà trường cùng những sinh hoạt muôn màu của nó bao gồm cả những gì thuộc về mối quan hệ giáo viên - học sinh sẽ tác động lớn tới học sinh.
Nếu như chúng ta mong muốn có được những học sinh có khả năng kiến tạo nên xã hội dân chủ, văn minh thì không thể không chú ý và sửa đổi mối quan hệ ấy.
Nguyễn Quốc Vương
" alt="Xưng hô 'con', 'em': Sự ngộ nhận giữa quyền lực và quyền uy của người thầy" />